Chào mừng quý vị đến với Chào mừng bạn đến với website của Đoàn Thị Hồng Điệp.
Khởi nghĩa Mai Thúc Loan 713-722
Khởi nghĩa Mai Thúc Loan 713-722
Sau khi Lý Phật Tử xin thần phục nhà Tùy ở Trung Hoa để chịu ách Bắc thuộc lần thứ ba, đất nước Giao Châu lệ thuộc vào nhà Tùy. Đến năm 679 Giao Châu đổi thành An Nam Đô Hộ Phủ, đóng đô ở Giao Châu, thay đổi khu vực, chia ra 12 châu và 59 huyện. Việt Nam có tên gọi là An Nam cũng khởi nguồn từ đó.
Đất nước An Nam trong thời gian đó luôn luôn bị loạn lạc giữa nội tình và ngoại xâm. Có nhiều cuộc nổi dậy để chống lại ách thống trị của nhà Đường, trong đó có Mai Thúc Loan.
Mai Thúc Loan - sử nhà Đường còn gọi là Mai Huyền Thành - quê ở Mai Phụ ("gò họ Mai", tên nôm là Kẻ Mỏm), một làng chuyên làm muối ở miền ven biển Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh ngày nay, lúc bấy giờ giáp giới với đất Chăm ở bên kia dải núi Nam Giới.
Mai Thúc Loan nhà nghèo, phải làm nghề kiếm củi rồi đi làm thuê cho nhà giàu, chăn trâu, cày ruộng. Ông rất khỏe và sáng dạ, người đen trũi, nổi tiếng giỏi vật cả một vùng. Là người con chí hiếu, Mai Thúc Loan phụ giúp cho thân mẫu làm lụng, vào rừng kiếm củi. Thế nhưng, sau đó mẹ ông lại bị cọp vồ chết. Ông quyết định theo học săn, nhiều lần giết được cọp dữ khiến nhân dân trong vùng khâm phục. Vì vậy, mọi người đã suy tôn Mai Thúc Loan làm thủ lĩnh quân sự của làng.
Vùng đất Châu Hoan (Nghệ Tĩnh) lúc bấy giờ luôn bị giặc Chà Và (Java), Côn Lôn (Malaysia) cướp phá, thêm nữa là là ách đô hộ tàn bạo của nhà Đường làm cho nhân dân vô cùng khổ sở. Đặc biệt, nạn cống quả lệ chi (quả vải) cho Dương Quý Phi - một ái phi của vua nhà Đường ở Trường An là một gánh nặng khôn cùng đối với nhân dân Hoan Châu.
Cũng như mọi người dân đất Việt, Mai Thúc Loan phải đi phu, quanh năm phục dịch vất vả cho bọn đô hộ nhà Đường.
Năm 722, Mai Thúc Loan kêu gọi những người dân phu đã cùng ông phải đi gánh vải quả nộp cống cho chính quyền nhà Đường nổi dậy khởi nghĩa. Nhân tài khắp các châu Hoan, Diễn, Ái (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh) cũng đến tụ tập dưới cờ nghĩa. Thế lực nghĩa quân dần dần thêm mạnh, đã lợi dụng địa thế vùng Sa Nam xây dựng căn cứ chống giặc. Ông lấy Vệ Sơn làm trung tâm và cho đóng doanh trại nghĩa quân. Dọc bờ sông Lam, nghĩa quân đắp một chiến lũy dài hơn nghìn mét, còn gọi là thành Vạn An nổi tiếng. Mai Thúc Loan xưng đế, sử gọi ông là Vua đen họ Mai.
Mai Hắc Đế còn cử người đi giao thiệp, liên kết với các nước Chăm Pa, Chân Lạp ở phía tây và cả nước Kim Lân (Malaysia hiện nay) đặng có thêm lực lượng chống nhà Đường. Từ Vạn An, có một số quân từ các nước thuộc bán đảo Đông Dương giúp sức, nghĩa quân tiến ra bắc, tiến công phủ thành Tống Bình (Hà Nội). Bè lũ đô hộ Quang Sở Khách, trước khí thế ngút ngàn của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của người Việt, đã bỏ thành, chạy tháo thân về nước. Đất nước được giải phóng, lực lượng nghĩa quân phát triển tới hàng chục vạn người.
Nhưng lúc này nhà Đường còn mạnh, vua Đường cử tướng Dương Tư Húc, đem 10 vạn quân cùng Quang Sở Khách tiến sang đàn áp cuộc khởi nghĩa. Sau nhiều trận đánh khốc liệt, từ lưu vực sông Hồng đến lưu vực sông Lam, cuối cùng Mai Hắc Đế thất trận, nghĩa quân tan vỡ, một bộ phận rút vào rừng. Hiện nay ở thung lũng Hùng Sơn (Rú Đụn) còn lăng mộ cha con Mai Hắc Đế. Theo truyền thuyết dân gian sau khi Mai Hắc Đế bị bệnh mất ở trong rừng, con ông đã nối ngôi được một thời gian, tức là Mai Thiệu Đế. Nhân dân Việt Nam đời đời nhớ ơn Mai Hắc Đế, lập đền thờ ông ở trên núi Vệ Sơn và trong thung lũng Hùng Sơn.

Miếu và mộ Vua Mai Thúc Loan
Mai Hắc Đế mất đi, An Nam chìm đắm lại trong thời kỳ Bắc thuộc. Nhưng trong thời gian sau đó, triều chính nhà Đường rơi vào tình trạng bất an bởi Đường Huyền Tông say mê Dương Quý Phi, An Lộc Sơn làm chức Tiết Độ Sứ kiêm cả khu vực Bình Lư, Phạm Dương và Hà Đông (nay là Sơn Tây) để rồi làm cuộc tạo phản năm 755, Đường Huyền Tông phải bỏ ngôi vua, lánh nạn ở đất Ba Thục.
Sưu tầm
Đoàn Thị Hồng Điệp @ 11:51 31/12/2008
Số lượt xem: 9353
- Khởi nghĩa Lý Bí và Nhà nước Vạn Xuân (542 - 602) (31/12/08)
- Cuộc khởi nghĩa Bà Triệu – Một mốc son lịch sử (27/12/08)
- Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng (năm 40 - 43 sau công nguyên) (25/12/08)
- TÓM TẮT NIÊN BIỂU LỊCH SỬ VIỆT NAM (16/12/08)
- Cảm nghĩ của một giáo viên dạy sử . (15/12/08)
Các ý kiến mới nhất